Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Phong Tục Cưới Cổ Truyền Người Việt





Theo chữ nghĩa, sách vở thì trai gái lấy nhau, gọi là giá thú (giá là lấy vợ, thú là lấy chồng) nhưng nhân gian ta vẫn gọi nôm là đám cưới, hoặc gọn hơn là cưới.
Trong đời sống tinh thần của người Việt (Kinh) thì cưới là một chuyện hệ trọng trong cuộc đời của mỗi con người. Dân gian có câu : "Tậu trâu cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thật là khó thay". Cưới là một phong tục, một nghi lễ đậm phong vị dân tộc nhưng lại nhiêu khê tốn kém. Phần lớn các đám cưới cổ xưa của người Việt thường được tổ chức theo một cuốn sách cổ gọi là Thọ mai gia lễ - cuốn sách dạy người ta những việc về quan, hôn, tang, tế. Về sau tuỳ từng vùng, từng thời, từng gia cảnh mà việc hỷ (cưới) được tổ chức khác nhau. Nhưng cho dù là ở đâu, thời nào thì một đám cưới truyền thống cũng gồm các thủ tục, các bước chính là: kén chọn, giạm ngõ (chạm mặt), hỏi, cưới, lại mặt và nộp cheo. - Kén chọn: Lệ xưa việc lấy vợ, gả chồng là việc của cha mẹ, vậy con cái đến tuổi trưởng thành thì cha mẹ tiến hành kén rể, kén dâu. Kén rể, kén dâu là một công việc tiền hôn lễ nhưng rất quan trọng. Trước hết là việc xem xét gia đình dự định trở thành thông gia xem thuộc loại gia đình như thế nào, có môn đǎng hộ đối không? Ca dao cổ có câu "Mua thịt thì chọn miếng mông, lấy chồng thì chọn con tông nhà nòi" cho bên gái. Lại có câu "Lấy vợ kén tông lấy chồng kén giống" cho cả hai bên. Sự kén chọn của nhà trai bao giờ cũng chủ động nên kỹ càng hơn. Truyện Kiều có một câu:
"Trǎm nǎm tính cuộc vuông trònPhải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông".
Cô dâu tương lai phải "tam hợp" tránh "tứ xung" về tuổi. Không sành việc xem tuổi thì cứ "Gái hơn hai, trai hơn một" là tốt. Đó là về tuổi còn ngoại hình thì người phụ nữ cũng phải "Lưng chữ vụ, vú chữ tâm" phải "thắt đáy lưng ong'". Và nếu được cả con mắt lá dǎm, lông mày lá liễu nữa thì thật "đáng trǎm quan tiền".- Giạm ngõ hay chạm mặt: Đó là lần đầu tiên đại diện nhà trai đến nhà gái, sau khi đã chọn được dâu đúng với "tiêu chuẩn". Lần "đặt vấn đề" này hoàn toàn có tính "đánh tiếng", "làm quen". Nếu sau lần giạm ngõ này không có vấn đề gì thì lễ ǎn hỏi chính thức được tiến hành. Điều đáng chú ý là trong lần chạm mặt này, cô dâu, chú rể tương lai sẽ được thấy mặt nhau, vì thế còn được gọi là lễ xem mặt. - Ǎn hỏi: Có nơi gọi là lễ bỏ trầu cau, khi hai bên trai gái đã thống nhất được với nhau về mặt gia đình, đối tượng cụ thể, vào "ngày lành tháng tốt" sẽ tổ chức ǎn hỏi. Nhà trai mang lễ vật gồm trầu cau, chè thuốc, có khi là xôi gà đến nhà gái để chính thức bàn chuyện cưới xin. Trong xã hội cũ thì lễ này là lễ "ngã giá" người con gái. Nhà gái sẽ được đưa ra yêu cầu, tức là nơi thách cưới. Lệ cưới cũ, thách cưới tức là yêu sách do nhà gái đặt ra với nhà trai. Thường là thách một đôi bông tai (khuyên tai) vàng, một chiếc nhẫn, chǎn, chiếu, hòm, xiểng, quân áo cho cô dâu, ít ruộng vườn cho đôi vợ chồng mới và gạo thịt, rượu, trầu cau, trà thuốc cùng các thực phẩm khác để làm cỗ cưới. Thông thường nhà trai phải lo chuyện này trước lễ đón dâu. Vậy nên mới xảy ra sự "Giơ cao, dánh khẽ", "thương con ngon rể, và "cò kè bớt một thêm hai" trong lễ hỏi. Sau lễ hỏi, nhà gái mang trầu cau đi chia khắp họ nội ngoại, xóm giềng, bè bạn. Miếng trầu cau thay cho lời thông báo việc gả chồng cho con, đó chính là thứ thay cho thiếp báo, thiếp mời. - Lễ cưới: Sau khi các điều (yêu sách) đã được nhà trai thực hiện, người ta chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ cưới. Trước đó, cả hai nhà đã dựng rạp, sửa sang nhà cửa đón khách. Hôm cưới, nhà trai chọn một đoàn gồm một người có tuổi (45-50), "con cái đông đàn dài lũ" còn đủ vợ chồng (song toàn), kiêng người goá vợ, goá chồng, lại giỏi ǎn nói, đối đáp, làm trưởng đoàn cùng với nǎm đến mười thanh niên trẻ, đẹp, còn "tân" (chưa vợ) gọi là phù rể, đi đón dâu. Trên đường đến nhà gái, trước khi vào cổng, đoàn đi đón dâu bị trai làng, trẻ con chặn lại bằng một sợi dây thừng hay đóng cổng lại (gọi là tục chǎng dây, đóng cổng). ở đoạn này của lễ cưới thật vui. Nhiều khi bên họ gái ra vế "đối" bắt bên kia phải "đáp" lại thật chỉnh, thật nhanh mới cho đi. Lại phải tung tiền xu cho bọn trẻ con mới được vào cổng... Sau khi đã vào đến sân nhà gái đoàn đi đón dâu được mời vào nhà ngồi chơi trên chiếu cặp điều ǎn trầu, uống nước và sau đó dùng cơm chiều. Xong xuôi, đại diện nhà trai có "người" xin dâu với họ nhà gái. Nhà gái bao giờ cũng làm ra vẻ dùng dằng, lần khần và chỉ đồng ý cho dâu đi vào giờ cuối của buổi chiều.Đoàn đưa dâu của nhà gái cũng gồm những thiếu nữ trẻ và xinh (gọi là các cô phù dâu), đứng đầu đoàn đưa dâu cũng là một bà có tuổi còn song toàn (còn chồng) và "mắn" con. Lúc này cả đoàn đón dâu và đưa dâu cùng đi, nên đông vui. Nào ô, nào khǎn, nào nón thúng quai thao, nào yếm thắm bao xanh, môi trầu "cắn chỉ". Trang phục cổ truyền dân tộc xuất hiện phong phú nhất là ở lúc này. Đoàn về đến nhà trai, ở đầu cổng, pháo đã nổ giòn để đón dâu. Tối đó là lễ tế tơ hồng nguyệt lão, tiên thiên, là lễ mệnh tiếu (nghe lời cha mẹ dạy bảo). Sau cùng là lễ hợp cẩn. Cô dâu bước qua đống lửa bước vào buồng mình. Có nơi đặt một cái cối trước cửa buồng khi cô dâu bước qua, mẹ chồng cầm chày giã vào cối không ba cái. Giường của đôi vợ chồng mới cưới đã được một người đàn bà có tuổi, nhiều con cái trải chiếu cho, một chiếc sấp, một chiếc ngửa... Vào giường, cô dâu phải ngồi thật mạnh xuống, trong lúc bạn bè, chú rể đang làm náo động ầm ĩ cǎn buồng lên một lúc rồi mới đi ra. Sau đó là lễ hợp cẩn: cô dâu chú rể uống chung một chén rượu nhỏ, có nơi ǎn chung một đĩa cơm nếp, đĩa xôi... tất cả những phong tục đó nhằm mong mỏi có nàng dâu hiếu thảo, sớm có con, vợ chồng hoà thuận đến "bách niên giai lão".- Lễ lại mặt: Sau đêm tân hôn, vợ chồng mới dắt nhau về nhà gái. Mọi việc suôn sẻ sẽ tổ chức tiệc mừng. Lễ lại mặt xưa là để cô dâu tỏ chữ hiếu với cha mẹ, mặt khác, còn có ý nghĩa cô ấy, chị ấy đã làm toại nguyện chàng trai. Trường hợp có trục trặc gì trong đêm tân hôn thì trong ngày lại mặt này bố mẹ cô dâu cũng sẽ được biết. Xưa kia, khi chú rể cùng cô dâu trở về mà đem theo một lễ có thủ lợn mà cắt mất tai thì sẽ mất vui (thủ lợn bị cắt mất tai tức là dấu hiệu cảnh báo nhà gái rằng: con gái ông bà trước khi lấy chồng đã không còn trinh trắng!). Trường hợp này nhà gái buộc phải bí mật trả lại nhà trai một số của nả, lễ vật, nhiều khi rất đáng kể mới yên chuyện. - Lễ nộp cheo: là một nghi lễ phụ trong đám cưới, nhưng nhất thiết phải có. Không có bữa khao này thì đôi vợ chồng mới không được coi là thành viên của làng xóm. Trong bữa khao, chú rể đóng vai chính, anh ta ngoài việc phải lo bữa khao còn phải nộp một số vật liệu như gạch, ngói để tu bổ các công trình công cộng của làng xóm bên gái như đình, điếm, đường làng, chùa cổng... là một thủ tục nằm ngoài hôn thú nhưng không thể không có, vì vậy ca dao cổ có câu:
Có cưới mà chẳng có cheo Nhân duyên trắc trở như kèo không đinh .
Đó là tục lệ cưới xin cổ xưa. Ngày nay đám cưới của người Việt đã có những thay đổi lớn, vừa dân tộc vừa trang trọng nhưng cũng rất tiết kiệm. Các tục cũ như tảo hôn (lấy chồng từ thuở 13, đến nǎm 18 thiếp đà nǎm con), đa thê (trên trời có vảy tê tê có anh bảy vợ chẳng chê vợ nào), đòi của hồi môn (của cô dâu mang về nhà chồng) và nhiều tục lệ nhiêu khê, tốn kém khác đã mất dần, nhường chỗ cho những tập quán mới vừa dân tộc vừa vǎn minh .

-------------------------------------------------

Thủ tục trong hôn lễ truyền thống của người Việt

    Ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, hôn nhân của người Việt xưa có sáu lễ chính. Để tiến tới hôn nhân thì hai bên gia đình phải trải qua các lễ sau:

        Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
        Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.
        Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
        Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
        Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là
        Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.

    Tuy nhiên hiện nay đa số gia đình người Việt không còn theo những lễ này nữa mà đã co hẹp lại để đỡ tốn thời gian và tiền bạc. Theo mình được biết thì hiện nay, đám cưới hiện đại chỉ còn một số lễ như sau:
    Lễ dạm ngõ
    Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có trầu cau vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt. Miếng trầu là đầu câu chuyện, không có trầu là không theo lễ.
    Lễ Ăn hỏi

    Hay còn gọi là lễ vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày nay cha mẹ đôi bên đã biết biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có nơi, có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.
    Lễ cưới

        Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn. Với đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn, cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
        Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.

            Tục chăng dây: ở một số đám cưới, nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng dây trước của nhà gái. Khi nhà trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này, khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái.

        Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
        Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.
        Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn giản, ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy lễ tơ hồng rồi vái nhau
        .
        Trải giường chiếu: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, cô dâu chú rể vào phòng tân hôn, bà sẽ trải sẽ trải đôi chiếu lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận...
        Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống.
        Tiệc cưới: dù đám cưới to hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nông thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái "tục" của sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.

            Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam còn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.

        Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỉ hoặc tứ hỉ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lợn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng
--------------------------------------------------------------------
Trình tự tiến hành lễ cưới của người Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi – tên gọi có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất như sau:

Sự mối manh: Đầu tiên phải có người trung gian, đóng vai trò bắc cầu cho hai bên gia đình… Đó thường là người đứng tuổi, có uy tín, có kinh nghiệm.

Lễ chạm ngõ

Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có trầu cau mới được, vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt. Không có trầu là không theo lễ.

Lễ vấn danh (ăn hỏi)

Chữ Hán gọi chữ này là lễ vấn danh (hỏi tên tuổi, so đôi lứa). Gọi như thế thôi chứ người ta đã biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có chồng (dù chưa cưới). Cô đã phải biết bổn phận rồi, và những nhà khác cũng phải biết, đừng lai vãng mối lái gì nữa. Nhân dân nói một cách mộc mạc mà rất có ý vị, đó là ngày bỏ hàng rào. Nghĩa là con gái nhà này đã được gài, được đánh dấu rồi, xin đừng ai hỏi đến nữa. Còn một cái tên nôm na để dịch lễ vấn danh: lễ ăn hỏi.

Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà (pha đủ một ấm), một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ thôi. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.

Lễ cưới

Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai phải đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết đã có sẵn cho cô dâu đầy đủ. Đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn sau này, cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.

Do không hiểu ý nghĩa này, mà nhiều nơi đã xảy ra nạn thách cưới. Nhà gái đòi điều kiện của cải, bù vào việc nhà mình mất người. Rồi còn xảy ra tệ nạn sau khi cô dâu về, bà mẹ chồng đã thu lại các của cải để bù vào việc đi vay mượn trước đó. Thách cưới đã thành hủ tục, giờ đây đã được bỏ đi.

Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.

Lễ rước dâu

Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành từng đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu đứng sẵn để cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.

Rước râu vào nhà

Đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.

Lễ tơ hồng

Cả hai họ cùng ngồi ăn uống xong, tất cả ra về, trừ người thân tín thì ở lại. Họ chờ cho cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau, là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng tơ hồng đơn giản nhưng rất thanh lịch, không có cỗ bàn nhưng có rượu và hoa quả. Có thể cúng trong nhà, mà cũng có thể cúng dưới trời. Ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng, chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Các đám cưới quý tộc thì việc tổ chức có quy cách hơn.

Trải giường chiếu

Xong lễ tơ hồng, thì cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng cô dâu. Trong lúc này trên chiếc giường cưới đã có sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau. Bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, sẽ trải đôi chiếu lên giường, trải cho ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận.

Lễ hợp cẩn

Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh. Loại bánh này gọi là bánh phu thê (sau này ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng ăn hết cái bánh - chỉ có hai vợ chồng, không chia cho ai, không để thừa. Mọi người ra ngoài, để hai vợ chồng cùng tâm sự. Ở một số nhà khá giả, thiên về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè văn chương chữ nghĩa với chàng rể còn mang hoa, thắp đèn sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.

Lễ lại mặt

Cũng gọi là ngày nhị hỉ, lễ cưới xong, sáng hôm sau, hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lợn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay. Nhưng trường hợp này rất hiếm.

Lễ cheo

Lễ cưới Việt Nam còn có một hiện tượng độc đáo, đó là lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng. Thật ra đây cũng là thủ tục như bây giờ chúng ta đăng ký ở Uỷ ban. Song người Việt không cho đó chỉ là thủ tục, mà là một lễ nghi hẳn hoi. Người theo chữ nghĩa sách vở thì gọi lễ cheo này là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.

Cách thức tổ chức, trình tự tiến hành của một đám cưới Việt Nam ngày xưa là như vậy. Những đám cưới theo kiểu mới hiện nay, theo phong trào, theo quan niệm mới (thật ra thì chưa thành quan điểm), ta cứ làm mà thực ra thì chưa ưng lắm. Gần đây đời sống của ta có tươi hơn, chuyện xã giao, chuyện theo đà cũng rầm rộ hơn, khiến cho nhiều người biết là không ổn mà vẫn cứ phải theo những kiểu cách phô trương (có cả trục lợi).

Nhìn lại các phong tục cổ truyền của đám cưới ngày xưa, phải thành thực nhận rằng nhiều người trong chúng ta chưa thật tiếp cận đúng với tinh thần, ý nghĩa nên chỉ thấy phần thiếu sót: nhiều nghi lễ phiền phức, mang tính phong kiến nặng nề; nhiều hủ tục: chuyện thách cưới, chuyện ở rể, chuyện môn đăng hộ đối… làm giảm đi ý nghĩa của hôn nhân, đám cưới phô trương cỗ bàn, khoe khoang y phục, hát xướng…

Thật ra người dân ta, ngày xưa có ưa gì những đám cưới loè loẹt đâu. Nhưng một mặt khác, lại phải thấy rằng, cách tổ chức ngày xưa quả thực có ý nghĩa sâu sắc và có những nét đẹp. Các đám cưới mới của chúng ta ngày nay, phải xin phép để nói rằng, nhiều trường hợp đã không thể hiện được cái đẹp, cái hay đã có.

Về ý nghĩa sâu sắc, có tính cách triết học, có thiên về tâm linh, người ta hiểu rằng: hôn nhân là việc hệ trọng, là thiêng liêng. Vì thế người ta thấy cần phải theo lễ. Phải gọi là lễ cưới chứ không chỉ là đám cưới suông. Lấy vợ, lấy chồng là một việc thiêng liêng của đời người. Lấy nhau vì tình, nhưng cũng còn vì nghĩa nữa. Nhiều cô cậu ngày nay chỉ biết yêu nhau mà lấy nhau, để thoả mãn sự gắn bó, có lẽ không khẳng định là dài hay ngắn.

Cưới vợ cưới chồng ở Việt Nam là có sự chứng kiến của thần thánh tổ tiên (có tơ hồng). Đó là thần quyền. Rồi phải có làng xóm, pháp luật công nhận (lễ nộp cheo). Đó là pháp quyền. Và trước nhất anh chị phải yêu nhau, phải thấy hợp nhau, hợp tuổi tác. Đó là nhân quyền. Những đám cưới có hai cô cậu biết nhau (mời bạn bè đến ăn) cũng chỉ là quan hệ cá nhân mà thôi. Chỉ biết yêu, chứ không biết đó là thiêng liêng, nên sự ràng buộc chỉ là mức độ.

Đám cưới Việt phải có trầu, cau mới thể hiện được sự ràng buộc của tình nghĩa vợ chồng và linh ứng của thần linh. “Ba đồng một mớ trầu cay – Sao anh không hỏi những ngày còn không…” là ý nghĩa như thế.

Lễ vật đám cưới truyền thống - ở các nhà bình dân - không có mâm cao cỗ đầy, không ai đếm món: mâm này năm trăm, mâm kia sáu trăm, nhà các quan to thì lắm xe đưa đón. Nhưng người dân Việt Nam biết chọn các lễ vật đẹp. Những cốm, hồng, những dây lụa chăng đường, những bài thơ, bài hát. Thật là đẹp đẽ và cảm động. Cái đẹp của lễ cưới Việt Nam là như thế.
---------------------------------------------
Lễ dạm ngõ - ăn hỏi

    Phong tục hôn nhân của người Việt theo truyền thống gồm 3 lễ chính là lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Hành xử đúng nghi lễ truyền thống của dân tộc là cách gắn kết tình cảm hai họ và góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa đặc trưng của đất nước.

    Lễ dạm ngõ

    Lễ dạm ngõ là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình để nhà trai chính thức đặt vấn đề xin nhà gái cho đôi nam nữ được tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn trước khi quyết định đi đến hôn nhân. Thường thì khoảng thời gian tổ chức lễ dạm ngõ sẽ diễn ra trước ngày tổ chức lễ ăn hỏi khoảng nửa tháng. Lễ dạm ngõ thường diễn ra vào buổi tối.

    Lễ vật trong ngày dạm ngõ theo truyền thống chỉ cần có trầu cau và chè với số lượng chẵn. Tuy vậy, đây vẫn là nghi lễ quan trọng không thể bỏ trong phong tục hôn nhân truyền thống của người Việt vì lễ dạm ngõ là nghi lễ khởi đầu cho một loạt các nghi thức hôn nhân sau đó. Thành phần tham dự trong ngày lễ dạm ngõ chỉ gồm cô dâu, chú rể và những người thân gần nhất của cô dâu và chú rể là bố mẹ chú rể và cả gia đình cô dâu. Cô dâu sẽ phải mặc áo dài trong buổi lễ này.
    Nghi lễ đón tiếp nhà trai cũng tương đối đơn giản, thân thiện và cởi mở. Nhà gái chuẩn bị sẵn trà, thuốc lá, trầu cau, trái cây, hột dưa, nước ngọt... Đoàn nhà trai sẽ được chào đón niềm nở và mời uống trà thơm, ăn trái cây. Sau đó nhà trai sẽ trao lễ vật và nhà gái mang đặt lên bàn thờ gia tiên thì nghi lễ dạm ngõ coi như đã hoàn tất.

    Lễ ăn hỏi

    Lễ ăn hỏi (còn được gọi là lễ đính hôn) là sự thông báo chính thức về việc hứa gả giữa hai họ. Lễ ăn hỏi là một nghi lễ quan trọng không kém gì lễ cưới của đôi trai gái. Qua thời gian, lễ ăn hỏi mỗi ngày có thêm chút cách tân hoặc thay đổi về hình thức nhưng nhìn chung, những điểm đặc trưng trong truyền thống của người Việt vẫn còn giữ được đến ngày nay.
    Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái, nhà gái nhận lễ ăn hỏi tức là đã đồng ý gả con gái cho nhà trai và kể từ ngày này, đôi trai gái có thể coi là vợ chồng chưa cưới, chỉ còn chờ ngày cưới để công bố với hai họ.

    Thành phần hai họ

    Nhà trai gồm có: Chú rể và những người thân nhất của chú rể như bố mẹ, ông bà, anh chị em, cô, dì, chú, bác, bạn bè và một số thanh niên chưa vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp lễ vật). Số người bê tráp là số lẻ, 3, 5, 7, 9 hoặc 11.

    Nhà gái gồm có: Cô dâu và những người thân nhất của cô dâu như bố mẹ, ông bà, anh, chị, em, cô, dì, chú bác và một số bạn gái chưa chồng để đón lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật của nhà gái tương ứng với số nam bưng mâm quả của nhà trai.

    Lễ vật

    Một mâm lợn sữa quay, trầu, cau, bánh cốm, mứt sen, rượu, chè, thuốc lá, bánh phu thê, bánh đậu xanh, tiền dẫn cưới... Các loại bánh, mứt dùng trong lễ ăn hỏi đều được đựng trong những hộp giấy màu đỏ hoặc bọc trong giấy đỏ, vì màu đỏ tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc và may mắn. Cũng có gia đình thay vì dùng các loại bánh trên thì dùng xôi gấc. Theo phong tục miền Bắc truyền thống thì lễ hỏi thường phải có lợn sữa quay, còn theo phong tục miền Nam lại có thêm một bộ nhẫn, dây chuyền và bông tai đính hôn. Tuy nhiên, số lượng lễ vật nhất thiết phải là số chẵn (bội số của 2, tượng trưng đôi lứa) nhưng lễ vật đó lại được xếp trong số lẻ của tráp (tượng trưng cho sự phát triển).

    Nghi thức lễ ăn hỏi

    Tất cả lễ vật phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Dù dùng phương tiện đi lại là: ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng l00m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái.

    Về phía nhà gái, cô dâu phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới được ra. Nhà gái sẽ nhận lễ vật từ nhà trai và đặt một một phần lên bàn thờ gia tiên. Gia đình nhà gái sẽ đứng bên phải bàn thờ, gia đình nhà trai đứng bên trái. Nhà gái lần lượt giới thiệu các thành viên trong gia đình, sau đó đến lượt nhà trai giới thiệu. Đôi trai gái ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ. Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng bàn để rót nước mời khách.

    Kế đến là nghi thức lên đèn. Đôi bạn trẻ sẽ đứng trước bàn thờ gia tiên theo thứ tự nam tả nữ hữu nhưng chỉ có chú rể tương lai làm lễ. Làm lễ xong, chú rể xin phép đeo nhẫn đính hôn cho cô dâu. Mẹ chồng cũng tặng chút quà nhỏ kỷ niệm và đeo nữ trang cho cô dâu. Kế đó mẹ chú rể trao cho nhà gái tiền dẫn cưới. “Quả” sẽ được chia bớt mỗi thứ một ít cho nhà trai gọi là “lại quả”. Số còn lại mang chia cho bà con hàng xóm để “biếu trầu” thông báo lễ ăn hỏi của đôi trai gái. Đặc biệt, cau trong lễ hỏi phải dùng tay xé chứ không được cắt bằng dao. Khi nhà trai nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại.
--------------------------------------------
Một số gia đình nhà trai phải có lễ xin dâu trước lễ đón dâu, còn một số khác lại gộp lễ xin dâu và lễ đón dâu làm một.
Trong lễ cưới, cô dâu có thể chọn trang phục áo dài truyền thống hoặc mặc váy cưới
Cũng giống như lễ ăn hỏi, lễ đón dâu đều có những quy tắc và thủ tục riêng mà không phải đôi uyên ương nào cũng nhớ hết. Báo Ngôi Sao sẽ giúp bạn tóm tắt những nghi lễ chính trong lễ đón dâu truyền thống của người Việt để các cặp đôi sắp cưới biết rõ được trình tự ngày thành hôn:

1. Lễ xin dâu

Trước khi đến giờ đón dâu chính thức, đại diện nhà trai, thường là mẹ chú rể cùng cô hoặc bác thân thiết sẽ mang cơi trầu đến nhà cô dâu trước để làm lễ xin dâu. Mẹ cô dâu sẽ nhận tráp trầu cau và mang lên thắp hương trên bàn thờ tổ tiên của nhà gái. Đây là nghi lễ truyền thống lâu đời, có ý nghĩa như lời chấp nhận chính thức cho cô dâu về nhà chồng. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người thường muốn tranh thủ thời gian trong buổi lễ đón dâu nên thường gộp lễ xin dâu và đón dâu vào làm một, mẹ chú rể sẽ không phải đến nhà gái trước nữa. - Nếu hai gia đình thống nhất nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một thì trước khi đến nhà gái, nhà trai chuẩn bị một cơi trầu để làm thủ tục xin dâu. Khi gộp hai lễ, lễ xin dâu phải diễn ra rất nhanh để lễ đón dâu được tiếp tục.

2. Màn chào hỏi, tuyên bố lý do

- Sau khi lễ xin dâu đã xong, nhà gái cho người mời nhà trai vào nhà, cùng ổn định chỗ ngồi và mời nước các thành viên trong đoàn. - Đại diện nhà trai sẽ giới thiệu thành phần tham dự lễ đón dâu và trình bày nguyện vọng được đón cô dâu mới về nhà chồng. - Đại diện nhà gái cũng sẽ có phần phát biểu đáp lại, đồng ý cho nhà trai đón cô dâu.

3. Cô dâu ra mắt gia đình - Sau khi đại diện hai nhà phát biểu xong, nhà gái cho phép chú rể được lên phòng đón cô dâu xuống chào họ hàng. (Cũng giống như trong lễ ăn hỏi, trước khi chú rể lên đón, cô dâu không được xuất hiện). - Chú rể cũng sẽ tặng bó hoa cưới cho cô dâu.

4. Cô dâu chú rể mời nước họ hàng và thắp hương tại nhà gái - Sau khi chú rể đón cô dâu, hai người sẽ cùng nhau rót nước mời các thành viên của hai nhà. - Tiếp đến, bố mẹ cô dâu hướng dẫn cô dâu chú rể thắp hương trên bàn thờ nhà gái. Tại miền Nam, trong đám cưới còn có một phong tục quan trọng không thể thiếu, đó là nhà trai phải mang một đôi nến to (đèn cầy) có hình long phụng để thắp trên bàn thờ nhà gái, còn nhà gái chịu trách nhiệm chuẩn bị chân nến. Các loại chân cắm và nến này đều phải có cùng kích cỡ với nhau.

5. Nhà gái căn dặn cô dâu trước khi về nhà chồng và lễ đón dâu kết thúc

- Mẹ cô dâu sẽ căn dặn con gái một số điều trước khi về nhà chồng và tặng quà hồi môn như kiềng vàng, nhẫn… - Tại nhà gái, mẹ chú rể cũng sẽ tặng quà cưới cho cô dâu chú rể. - Sau khi thủ tục dặn dò, trao quà đã xong, đại diện nhà trai sẽ phát biểu, xin phép được đón cô dâu về nhà. Một số nơi còn có phong tục khi cô dâu bước ra cửa, theo chồng, cô dâu không được ngoái đầu lại nhìn về nhà mẹ. - Một số thành viên trong gia đình nhà gái cũng sẽ theo đoàn nhà trai đưa cô dâu về nhà mới. Theo tục lệ truyền thống, bố cô dâu sẽ là người đưa con gái về nhà chồng, mẹ đẻ không đưa dâu.
Cô dâu chú rể sẽ mời nước bày tỏ lòng thành tới các thành viên trong gia đình hai nhà. Ảnh: Serendipity.

6. Làm lễ ra mắt cô dâu mới và tiến hành lễ thành hôn tại nhà trai

- Khi về đến nhà chú rể, đại diện nhà trai sẽ giới thiệu các thành viên tham dự lễ thành hôn. - Đại diện nhà gái cũng giới thiệu thành phần gia đình có mặt trong lễ thành hôn. - Đại diện nhà trai hướng dẫn cô dâu chú rể thắp hương trên bàn thờ tổ tiên. - Đại diện nhà trai sẽ đưa cô dâu chú rể và họ hàng nhà gái lên xem phòng tân hôn. Ý nghĩa của việc này là nhà trai sẽ cho nhà gái thấy hoàn cảnh, điều kiện gia đình mới mà cô dâu sẽ gắn bó trọn đời. Khi đưa cô dâu chú rể lên phòng tân hôn, một số gia đình còn chuẩn bị lễ trải giường tân hôn cho cặp uyên ương mới trước sự chứng kiến của gia đình nhà gái. Nghi lễ trải giường cưới phải do một người phụ nữ trong gia đình họ nhà trai thực hiện, đặc biệt, người này phải có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và phải sinh được cả con gái, con trai. Theo người xưa quan niệm, những người phụ nữ như vậy sẽ đem đến hạnh phúc và con đàn cháu đống cho đôi uyên ương. Nếu không làm nghi thức này, gia đình nhà trai có thể trải giường, chuẩn bị phòng tân hôn trước khi đi đón dâu. Có quan niệm, khi đón dâu về nhà, mẹ chồng không nên giáp mặt cô dâu mới, để tránh xung khắc sau này.

7. Cô dâu chú rể mời nước hai gia đình, lễ thành hôn kết thúc

- Đôi vợ chồng trẻ sẽ rót nước mời các vị quan khách tham gia lễ thành hôn. - Nhà gái dặn dò cô dâu về cuộc sống tại nhà chồng sau này. - Nếu hai gia đình tổ chức tiệc cưới chung tại khách sạn, nhà hàng, sau khi lễ thành hôn kết thúc, cả hai sẽ cùng đến tiệc cưới. Nếu hai nhà tổ chức riêng, nhà gái phát biểu, xin phép ra về và cảm ơn nhà trai đã chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống của cô dâu mới.
----------------------------------------------------------
Mâm lễ vật trong lễ ăn hỏi

Dù các lễ vật trong từng đám ăn hỏi có khác nhau, nhưng có một vật phẩm không thể thiếu là mâm trầu cau.
Số lượng và các lễ vật cụ thể sẽ do nhà gái yêu cầua.
Trong các thủ tục ngày cưới của người Việt Nam, lễ ăn hỏi được coi trọng nhất và phần chuẩn bị lễ vật để nhà trai đưa tới nhà gái sẽ được quan tâm đặc biệt bởi các vật phẩm này sẽ thể hiện sự chu đáo của nhà trai. Theo truyền thống từ xưa tới nay, lễ vật sẽ được đựng trong các mâm sơn son thiếp vàng, gọi là tráp. Số lượng tráp mâm quả và các loại lễ vật cụ thể thường do nhà gái sẽ đưa ra yêu cầu, tùy thuộc vào từng gia đình, nhưng ở mỗi miền Nam, Bắc có sự khác nhau. 1. Ở miền Bắc - Tại các tỉnh, thành từ Huế trở ra, nhà trai khi chuẩn bị đám hỏi sẽ phải chuẩn bị tráp lễ vật mà số lượng tráp là lẻ (có thể từ 3 tráp, 5 tráp, tới 11, 15 tráp)
- Trong các tráp, số lượng vật phẩm phải là số chẵn (ví dụ như 100 chiếc bánh cốm, 100 gói chè sen... để biểu tượng cho đôi lứa có đôi, có cặp)
- Các tráp lễ vật thường có:
+ Trầu cau
+ Bánh cốm
+ Chè
+ Hạt sen
+ Rượu và thuốc lá
+ Hoa quả
+ Lợn quay
- Khay để phong bì tiền (lễ đen) được để riêng, do mẹ chú rể cầm tới trao cho mẹ cô dâu. Để chuẩn bị các tráp ăn hỏi này, các bạn có thể tìm thấy những cửa hàng cung cấp dịch vụ trọn gói tại Hàng Than, là phố đồ lễ ăn hỏi nổi tiếng nhất Hà Nội. Ngoài ra, các cửa hàng nhỏ lẻ khác trên những phố như Kim Mã, Bạch Mai, Thái Hà, Nguyễn Trãi, Cầu Giấy cũng có thể chuẩn bị đồ lễ đẹp mắt cho đám hỏi của bạn. 2. Ở miền Nam - Ngược lại với truyền thống tại miền Bắc, các gia đình miền Nam thường yêu cầu số lượng tráp là chẵn, mà phổ biến nhất là 6 tráp (số 6 biểu tượng cho tài lộc).
- Trong các tráp, số lượng vật phẩm lại phải là lẻ, biểu tượng cho sự sinh sôi.
- Các mâm quả phổ biến thường có:
+ Trầu cau
+ Bánh phu thê
+ Gà hoặc lợn quay
+ Xôi
+ Rượu, thuốc và chè
+ Hoa quả
- Ngoài các mâm quả, nhà trai phải chuẩn bị một khay nhỏ hơn, đựng tiền cheo (gọi là lễ đen) để mang tới thắp hương trên bàn thờ nhà gái.
- Với những nhà khá giả, nhà trai sẽ chuẩn bị thêm một khay đựng áo dài và đồ trang sức cho cô dâu. Trong lễ ăn hỏi, cô dâu sẽ mặc áo dài, đeo đồ trang sức do nhà trai đem tặng rồi mới ra chào họ hàng hai bên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét