Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Lễ cưới theo nghi thức Phật giáo, Công giáo

  Lễ cưới theo các nghi thức tôn giáo đều thể hiện tính văn minh của mỗi loại hình tôn giáo. Đây là nét đẹp cần được tôn trọng, phát triển và giữ gìn. 

* Lễ thành hôn theo nghi thức Phật Giáo - Lễ Hằng Thuận

Lễ Hằng Thuận là nghi thức lễ cưới được tổ chức trang nghiêm tại chùa hoặc thiền viện. Ngoài ra, lễ Hằng Thuận cũng có thể tổ chức tại nhà thờ tổ của dòng họ. Theo tên gọi, "Hằng" là thường xuyên, luôn luôn, còn "Thuận" là hòa thuận, đồng thuận hướng về những điều cao thượng, tốt đẹp trong đời sống. Ý nghĩa của lễ Hằng Thuận là để vợ chồng ý thức được tầm quan trọng của hôn nhân, từ đó hướng đến cuộc sống gia đình hạnh phúc, êm ấm.

Hiện nay, rất nhiều đôi nam nữ Phật tử hoặc chưa là Phật tử tổ chức đám cưới ở chùa vì ý nghĩa thiêng liêng mà có lẽ chỉ tổ chức ở chùa mới có. Trước khi tổ chức, cô dâu, chú rể và gia đình hai bên phải đến chùa xin ý kiến của sư trụ trì, sau khi nhận được sự đồng ý mới bắt đầu bước vào công việc chuẩn bị cho buổi lễ. 

 Vị chủ trì buổi lễ thường là một vị hòa thượng hay chư tăng. Nghi lễ đám cưới sẽ được thực hiện ở chính điện của chùa. Sẽ có một chiếc bàn dài được kê ở chính điện, các vị hòa thượng sẽ đứng sau chiếc bàn đó, gia đình cô dâu, chú rể cùng họ hàng, bạn bè đứng ở hai bên theo đúng quy cách "nam tả, nữ hữu" (nhà trai đứng bên trái, nhà gái đứng bên phải). 

Trước khi làm lễ, vị chủ trì buổi lễ sẽ hỏi xem cô dâu, chú rể đã quy y chưa, nếu chưa thì thầy sẽ làm lễ quy y cho cả hai trước, sau đó nhà chùa làm lễ cầu an, rồi mới tới nghi lễ cưới. Cô dâu, chú rể sẽ quỳ trước bàn thờ để đọc lời nguyện và nhận lời ban phước cũng như lời răn dạy của vị chủ trì buổi lễ.

Tiếp đó là nghi lễ "Phu thê giao bái", cô dâu, chú rể trao nhẫn cưới và cùng nhau nghe sư thầy chủ trì nói về ý nghĩa của việc trao nhẫn, giảng dạy về đời sống hôn nhân theo tinh thần phật giáo.

 Cuối cùng, đại diện hai bên gia đình sẽ hứa trước tượng Phật và các vị chư tăng về việc chỉ bảo cho cô dâu chú rể nên người, xây dựng gia đình hạnh phúc. Sau khi buổi lễ tại chính điện kết thúc, gia đình hai bên sẽ mời sư thầy, các vị chư tăng cùng họ hàng và bạn bè dự tiệc chay. Thông thường, bữa tiệc này sẽ được tổ chức ngay tại chùa. Một bữa tiệc chay, không có bia, rượu vừa giúp gia đình theo đạo Phật tránh khỏi việc sát sinh, đồng thời cũng rất có lợi cho sức khỏe của gia đình, quan khách.

 Trong khói trầm ngào ngạt, trước sự chứng kiến của Đức Phật, trong lời kinh nhiệm mầu, trong sắc y vàng rực rỡ và lời khuyến nhủ của chư Tăng, hôn lễ diễn ra với tất cả sự trang nghiêm, thành kính, chắp cánh cho đời sống hôn nhân bay bổng giữa đôi bờ thiêng liêng và trần tục, hạnh phúc lứa đôi hòa quyện với những tôn chỉ của Phật, là cầu nối giữa Đạo và Đời, giữa hạnh phúc giải thoát. Trong lời răn dạy của vị trụ trì buổi lễ có nói về tinh thần từ bi – một tinh thần chủ đạo của Phật giáo. Từ bi, nói theo nghĩa rộng có nghĩa là yêu thương. Xét cụ thể, từ nghĩa là đem đến niềm vui cho người khác. Bi là làm cho người khác bớt khổ. Trong đời sống vợ chồng, điều này rất quan trọng. Người vợ/chồng đem đến niềm vui, và làm cho người bạn đời của mình bớt khổ tức đã thực hiện đúng tinh thần từ bi, đã giữ được đạo đức vợ chồng.

* Lễ cưới theo nghi thức Công Giáo

 Cưới xin là một nghi lễ quan trọng đối với người Thiên Chúa giáo. Những nghi lễ này của họ được tổ chức rất chặt chẽ và rất được coi trọng.

Người chứng giám được hiểu là người đại diện cho Đức Chúa Trời như Cha xứ, linh mục. Một đám cưới của người Thiên Chúa giáo có thể không được tổ chức tại nhà thờ nhưng người chứng giám là nhân vật không thể không có. Cha xứ hay linh mục là hiện diện cho Đức Chúa Trời trong buổi lễ quan trọng này, là người chứng giám và thể hiện ý Chúa cho phép hai người được lấy nhau.

Đám cưới của người Thiên Chúa được coi như một hoạt động tôn giáo. Có cầu nguyện, các bài hát nhà thờ và một bài giảng kinh thánh về hôn nhân.

Cũng như người phương Đông, đám cưới được tổ chức trước sự chứng kiến đông đảo của người thân, bạn bè của cô dâu, chú rể và tất nhiên không thể thiếu người chứng giám là Cha xứ hay linh mục.

Chú rể đã đứng đợi sẵn trên bục cao , trước mặt Người chứng giám để đợi cô dâu. Cô dâu sẽ xuất hiện cùng với người cha của mình và được cha dắt đến trao cho chú rể. Trước mặt người chứng giám tất cả mọi người, cả hai nếu đồng ý lấy nhau sẽ nói lời hứa yêu thương nhau suốt đời. Những lời nói hứa của họ được công khai trước mặt mọi người. Lời hứa vô cùng quan trọng, nó không chỉ là lời cam kết gắn bó cuộc sống với nhau giữa hai vợ chồng mà còn mang ý nghĩa tâm linh như là lời hứa của họ với Chúa Trời.

 Khi cả hai người đã đồng ý và hứa hẹn trước Chúa, người chứng giám sẽ tuyên bố hai người chính thức trở thành vợ chồng. Chú rể sẽ trao nhẫn và hôn cô dâu trước mặt mọi người như để công khai cuộc hôn nhân của họ với tất cả.

Chiếc nhẫn với hình vòng tròn được người Thiên Chúa coi là biểu tượng của sự trường tồn và vĩnh cửu. Chính vì vậy nhẫn là vật không thể thiếu và được chú rể trao cho cô dâu như lời hứa hẹn họ sẽ sống trọn đời bên nhau.

Tại một số đám cưới của người Thiên Chúa bạn sẽ thấy cô dâu và chú rể, mỗi người cầm một ngọn nến. Đừng ngạc nhiên vì mỗi cây nến họ cầm tượng trưng cho cuộc sống riêng của mỗi người trước khi kết hôn. Cả hai sẽ dùng cây nến của mỗi người thắp chung một cây nến khác và cùng thổi tắt cây nến riêng của họ.

 2/Trình tự tiến hành lễ cưới của người Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi – tên gọi có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất như sau:

Sự mối manh: Đầu tiên phải có người trung gian, đóng vai trò bắc cầu cho hai bên gia đình… Đó thường là người đứng tuổi, có uy tín, có kinh nghiệm.

Lễ chạm ngõ

Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có trầu cau mới được, vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt. Không có trầu là không theo lễ.

Lễ vấn danh (ăn hỏi)

Chữ Hán gọi chữ này là lễ vấn danh (hỏi tên tuổi, so đôi lứa). Gọi như thế thôi chứ người ta đã biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có chồng (dù chưa cưới). Cô đã phải biết bổn phận rồi, và những nhà khác cũng phải biết, đừng lai vãng mối lái gì nữa. Nhân dân nói một cách mộc mạc mà rất có ý vị. Đó là ngày bỏ hàng rào. Nghĩa là con gái nhà này đã được gài, được đánh dấu rồi, xin đừng ai hỏi đến nữa. Còn một cái tên nôm na để dịch lễ vấn danh: lễ ăn hỏi.

Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà (pha đủ một ấm), một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ thôi. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.

Lễ cưới

Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai phải đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết đã có sẵn cho cô dâu đầy đủ. Đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn sau này, cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.

Do không hiểu ý nghĩa này, mà nhiều nơi đã xảy ra nạn thách cưới. Nhà gái đòi điều kiện của cải, bù vào việc nhà mình mất người. Rồi còn xảy ra tệ nạn sau khi cô dâu về, bà mẹ chồng đã thu lại các của cải để bù vào việc đi vay mượn trước đó. Thách cưới đã thành hủ tục, giờ đây đã được bỏ đi.

Lễ xin dâu

Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.

Lễ rước dâu

Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành từng đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu đứng sẵn để cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.

Rước râu vào nhà

Đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.

Lễ tơ hồng

Cả hai họ cùng ngồi ăn uống xong, tất cả ra về, trừ người thân tín thì ở lại. Họ chờ cho cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau, là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng tơ hồng đơn giản nhưng rất thanh lịch, không có cỗ bàn nhưng có rượu và hoa quả. Có thể cúng trong nhà, mà cũng có thể cúng dưới trời . Ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng, chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Các đám cưới quý tộc thì việc tổ chức có quy cách hơn.

Trải giường chiếu

Xong lễ tơ hồng, thì cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng cô dâu. Trong lúc này trên chiếc giường cưới đã có sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau. Bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, sẽ trải đôi chiếu lên giường, trải cho ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận.

Lễ hợp cẩn

Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh. Loại bánh này gọi là bánh phu thê (sau này ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng ăn hết cái bánh - chỉ co hai vợ chồng, không chia cho ai, không để thừa.

Mọi người ra ngoài, để hai vợ chồng cùng tâm sự. Ở một số nhà khá giả, thiên về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè văn chương chữ nghĩa với chàng rể còn mang hoa, thắp đền sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.

Lễ lại mặt

Cũng gọi là ngày nhị hỉ, lễ cưới xong, sáng hôm sau, hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lơn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay. Nhưng trường hợp này rất hiếm.

Lễ cheo

Lễ cưới Việt Nam còn có một hiện tượng độc đáo, đó là lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng. Thật ra đây cũng là thủ tục như bây giờ chúng ta đăng ký ở Uỷ ban. Song người Việt không cho đó chỉ là thủ tục, mà là một lễ nghi hẳn hoi. Người theo chữ nghĩa sách vở thì gọi lễ cheo này là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.

Cách thức tổ chức, trình tự tiến hành của một đám cưới Việt Nam ngày xưa là như vậy. Những đám cưới theo kiểu mới hiện nay, theo phong trào, theo quan niệm mới (thật ra thì chưa thành quan điểm), ta cứ làm mà thực ra thì chưa ưng lắm. Gần đây đời sống của ta có tươi hơn, chuyện xã giao, chuyện theo đà cũng rầm rộ hơn, khiến cho nhiều người biết là không ổn mà vẫn cứ phải theo những kiểu cách phô trương (có cả trục lợi).

Nhìn lại các phong tục cổ truyền của đám cưới ngày xưa, phải thành thực nhận rằng nhiều người trong chúng ta chưa thật tiếp cận đúng với tinh thần, ý nghĩa nên chỉ thấy phần thiếu sót: nhiều nghi lễ phiền phức, mang tính phong kiến nặng nề; nhiều hủ tục: chuyện thách cưới, chuyện ở rể, chuyện đăng môn hộ đối… làm giảm đi ý nghĩa của hôn nhân, đám cưới phô trương cỗ bàn, khoe khoang y phục, hát xướng…

Thật ra người dân ta, ngày xưa có ưa gì những đám cưới loè loẹt đâu. Nhưng một mặt khác, lại phải thấy rằng, cách tổ chức ngày xưa quả thực có ý nghĩa sâu sắc và có những nét đẹp. Các đám cưới mới của chúng ta ngày nay, phải xin phép để nói rằng, nhiều trường hợp đã không thể hiện được cái đẹp, cái hay đã có.

Về ý nghĩa sâu sắc, có tính cách triết học, có thiên về tâm linh, người ta hiểu rằng: hôn nhân là việc hệ trọng, là thiêng liêng. Vì thế người ta thấy cần phải theo lễ. Phải gọi là lễ cưới chứ không chỉ là đám cưới suông. Lấy vợ, lấy chồng là một việc thiêng liêng của đời người. Lấy nhau vì tình, nhưng cũng còn vì nghĩa nữa. Nhiều cô cậu ngày nay chỉ biết yêu nhau mà lấy nhau, để thoả mãn sự gắn bó, có lẽ không khẳng định là dài hay ngắn.

Cưới vợ cưới chồng ở Việt Nam la có sự chứng kiến của thần thánh tổ tiên (có tơ hồng). Đó là thần quyền. Rồi phải có làng xóm, pháp luật công nhận (lễ nộp cheo. Đó là pháp quyền. Và trước nhất anh chị phải yêu nhau, phải thấy hợp nhau, hợp tuổi tác. Đó là nhân quyền. Những đám cưới có hai cô cậu biết nhau (mời bạn bè đến ăn) cũng chỉ là quan hệ cá nhân mà thôi. Chỉ biết yêu, chứ không biết đó là thiêng liêng, nên sự ràng buộc chỉ là mức độ.

Đám cưới Việt phải có trầu, cau mới thể hiện được sự ràng buộc của tình nghĩa vợ chồng và linh ứng của thần linh. “Ba đồng một mớ trầu cay – Sao anh không hỏi những ngày còn không…” là ý nghĩa như thế.

Lễ vật đám cưới truyền thống - ở các nhà bình dân – không có mâm cao cỗ đầy, không ai đếm món: mâm này năm trăm, mâm kia sáu trăm, nhà các quan to thì lắm xe đưa đón. Nhưng người dân Việt Nam biết chọn các lễ vật đẹp. Những cốm, hồng, những dây lụa chăng đường, những bài thơ, bài hát. Thật là đẹp đẽ và cảm động. Cái đẹp của lễ cưới Việt Nam là như thế.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét